Phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số: Cần những giải pháp mang tính chiến lược

  • 01/10/2018
  • 7248

Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách phát triển nguồn nhân lực vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tuy nhiên cho đến nay, chất lượng nguồn nhân lực khu vực này vẫn còn thấp và có khoảng cách khá xa với trình độ chung của cả nước. Do đó, để góp phần phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số cần có những giải pháp mang tính chiến lược để phát triển nguồn lực quan trọng này.

Chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực được coi là yếu tố then chốt, có tính đột phá để phát triển kinh tế - xã hội, góp phần xóa đói, giảm nghèo bền vững ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Chính vì thế, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đầu tư, phát triển giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng ngưồn nhân lực cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Theo Ủy ban Dân tộc, đến nay, đã có hàng vạn người dân tộc thiểu số có trình độ đại học, hàng ngàn người có trình độ thạc sĩ cùng nhiều tiến sĩ; 235 người được phong hàm Giáo sư, Phó Giáo sư; 9 Nghệ sỹ Nhân dân, 56 Nghệ sỹ ưu tú; 5 Thầy thuốc Nhân dân, 151 Thầy thuốc ưu tú; 4 Nhà giáo Nhân dân, 52 Nhà giáo ưu tú và 240 Nghệ nhân ưu tú; có 1.022 lượt người được bầu làm Đại biểu Quốc hội các khóa; 145 lượt đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khóa. Hiện nay có 50 đồng chí thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý, được phân công giữ các chức vụ quan trọng. Dù đã đạt được những kết quả nhất định nhưng chất lượng nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số và miền núi vẫn còn nhiều hạn chế.

Tính đến ngày 01-7-2015, tổng số dân của 53 dân tộc thiểu số tại Việt Nam có khoảng 13,4 triệu người (chiếm 14,6% dân số cả nước). Quy mô nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số ở Việt Nam có xu hướng tăng khá, mức độ tăng cao hơn so với bình quân chung cả nước (năm 1989 có 8,48 triệu, đến năm 1999 là 10,53 triệu, đến năm 2009 là 12,25 triệu). Quy mô dân số của các dân tộc không đồng đều, các cộng đồng người Tày, Thái, Mường, Khmer, Nùng và Mông có trên 1 triệu người; 2 dân tộc Dao và Hoa có từ 500.000 đến dưới 1 triệu người; 30 dân tộc có từ 10.000 đến dưới 500.000 người; 15 dân tộc có dưới 10.000 người (trong đó 11 dân tộc dưới 5.000 người, trong đó có 6 dân tộc dưới 1.000 người). Năm 2009 có 16 dân tộc có quy mô dân số dưới 10.000 người, nhưng đến thời điểm 2016, dân tộc La Hủ đã có 11.540 người. Dân số của các dân tộc thiểu số có sự tăng lên hằng năm, tuy nhiên ở một số dân tộc dưới 10.000 người có xu hướng tăng chậm; một số tăng rất chậm (Mảng, Cống, Cờ Lao, Bố Y, Rơ Măm, Brâu, Ơ-đu… 

Điều đáng lưu ý là chất lượng và trình độ nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số còn thấp, thể hiện ở các chỉ số như tuổi thọ trung bình, sức khỏe, trình độ học vấn, tỷ lệ lao động qua đào tạo... Năm 2015, tuổi thọ bình quân của nhóm dân tộc thiểu số là 72,1, tuy có sự cải thiện so với những năm trước đó nhưng vẫn thấp hơn 1 tuổi so với mức trung bình của cả nước (73,2 tuổi). Có sự chênh lệch lớn về tuổi thọ bình quân giữa các dân tộc thiểu số, dân tộc có tuổi thọ trung bình cao nhất cao hơn nhóm có tuổi thọ trung bình thấp nhất đến 12 tuổi.

Về học vấn, trung bình chỉ có 79,2% người dân tộc thiểu số biết đọc, biết viết tiếng phổ thông. Sự chênh lệch này khá lớn giữa các dân tộc. 7 dân tộc có tỷ lệ người biết đọc, biết viết tiếng phổ thông đạt trên 90% (gồm Mường, Thổ, Tày, Sán Dìu, Ngái, Ơ-đu, Hoa, Sán Chay). Ở tốp dưới, 7 dân tộc có tỷ lệ người biết đọc, biết viết thấp nhất thì có đến hơn 50% là không biết chữ (Hà Nhì, Cờ Lao, Brâu, Mông, Mảng, Lự, La Hủ). Đáng chú ý là đa số các dân tộc có tỷ lệ mù chữ cao lại không rơi vào nhóm các dân tộc có tỷ lệ đi học đúng tuổi thấp nhất. Hiện nay, có khoảng 14 tỉnh có đông đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó một số tỉnh có tỷ lệ người trong độ tuổi lao động không biết chữ rất cao như Lai Châu, Hà Giang, Điện Biên, Sơn La, Bắc Kạn, Lào Cai, Yên Bái, Cao Bằng, Ninh Thuận, Kon Tum, Gia Lai, Sóc Trăng, Trà Vinh, An Giang. Điều này cho thấy việc xóa mù chữ ở người trưởng thành là thách thức rất lớn với các dân tộc thiểu số.

Một thực trạng đáng lưu tâm nữa là tỷ lệ lao động người dân tộc thiểu số qua đào tạo còn rất thấp. Ủy ban Dân tộc cho biết, chỉ có 6,2% lao động dân tộc thiểu số có việc làm đã qua đào tạo, bằng 1/3 so với tỷ lệ trung bình của lực lượng lao động cả nước. Trong đó lao động nam đã được đào tạo nhiều hơn lao động nữ. Đa số lao động dân tộc thiểu số chỉ được đào tạo đến trung cấp. Tỷ lệ lực lượng lao động có trình độ vẫn còn rất hạn chế ở một số dân tộc như Gia-rai, Xơ-đăng, Xinh-mun, Khơ-mú, La Hủ, Ra-glai, Phù Lá, Ba-na, Rơ-măm, Mảng, Brâu và Xtiêng. 

Không chỉ vậy, nhận thức, hiểu biết xã hội, kỹ năng sống của phần lớn lao động dân tộc thiểu số được hình thành chủ yếu qua tích lũy kinh nghiệm từ các hoạt động sản xuất, đời sống và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong phạm vi một dòng họ, một cộng đồng, một dân tộc cụ thể. Việc hội nhập nâng cao nhận thức, hiểu biết về xã hội bên ngoài rất hạn chế, kỹ năng sống chưa được hoàn thiện và phù hợp với sự phát triển chung của xã hội. Đây là một trong những rào cản của lao động dân tộc thiểu số hiện nay.

Bên cạnh đó, tính năng động, thích ứng trong môi trường làm việc mới chưa cao, tác phong, kỹ năng, kỷ luật lao động hạn chế. Thực trạng ngành, nghề sản xuất của vùng dân tộc thiểu số chủ yếu là nông nghiệp truyền thống với ruộng đất manh mún, tư liệu giản đơn, sản xuất nặng về khai thác tự nhiên, dựa vào kinh nghiệm là chính với mục tiêu làm ra sản phẩm để tự bảo đảm cuộc sống. Cùng với đó là các rào cản về kinh tế, văn hóa, xã hội, dân tộc, năng lực, trình độ... đã không tạo ra cơ hội tiếp cận, làm quen và hòa nhập với kinh tế thị trường... Những yếu tố này đã làm hạn chế đến tính chủ động, sáng tạo, tinh thần phối hợp, khả năng thích ứng của lao động dân tộc thiểu số.

Xét về cơ cấu ngành, nghề, ngoại trừ một số dân tộc như Hoa, Ngái, Sán Dìu, Chăm, Khmer, Chơ-ro… có tỷ trọng lao động có việc làm trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp thấp, còn lại hầu hết các dân tộc chủ yếu làm việc trong lĩnh vực trên với tỷ trọng bình quân lên đến 81,9%, cao hơn gần gấp đôi so với bình quân chung cả nước. Không kể 7 dân tộc (Hoa, Ngái, Sán Dìu, Chăm, Khmer, Chơ-ro) hầu kết các dân tộc còn lại đều tham gia rất ít vào làm việc trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.

Từ thực trạng trên, có thể thấy, về cơ bản, chất lượng nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số (cả thể lực, trí lực, tâm lực) còn thấp. Gần 21% số người dân tộc thiểu số ở độ tuổi 15 không thể đọc, viết và hiểu được một câu đơn giản bằng chữ phổ thông; kiến thức, kỹ năng, năng lực làm việc, khả năng thích nghi của lao động dân tộc thiểu số còn nhiều yếu kém. Chuyển dịch cơ cấu việc làm chậm, lao động chủ yếu làm việc trong khu vực nông nghiệp và phi chính thức (trên 80%); tình trạng thiếu việc làm, nhất là ở thanh niên, ngày càng gia tăng. Vùng dân tộc thiểu số vẫn là rốn nghèo nhất của cả nước, nhất là ở những hộ dân tộc thiểu số miền núi, vùng cao; tình trạng nghèo kinh niên, không có khả năng thoát nghèo, nghèo từ thế hệ này sang thế hệ khác còn tồn tại trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số.

Vì vậy, nhìn một cách tổng thể đào tạo nghề, giải quyết việc làm gắn với phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số trên cơ sở chuyển đổi mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu kinh tế vùng dân tộc thiểu số chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa, chuyển đổi sinh kế, đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động, tạo cơ hội việc làm có giá trị gia tăng và thu nhập cao nhằm giảm nghèo bền vững vùng dân tộc thiểu số vẫn là thách thức lớn.

Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực dân tộc thiểu số

Thứ nhất, để đào tạo nghề, giải quyết việc làm gắn với phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số về chiến lược phải tập trung vào giải quyết các nút thắt. Đó là giải quyết vấn đề trình độ dân trí thấp thông qua xóa mù chữ, phổ cập giáo dục nhằm tiếp tục nâng cao dân trí; đồng thời phát huy truyền thống tốt đẹp của văn hóa các dân tộc, phong tục tập quán sản xuất tiến bộ, xóa bỏ phong tục, tập quán canh tác lạc hậu. Bên cạnh đó cần khai thác hiệu quả tiềm năng vốn rừng; tăng cường kết nối vùng để tránh cô lập, nhưng cũng không “Kinh hóa”, đô thị hóa một cách máy móc.

Thứ hai, đổi mới tư duy, cách tiếp cận chính sách đào tạo nghề, giải quyết việc làm gắn với phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số theo hướng các chính sách, chương trình đào tạo nghề, giải quyết việc làm gắn với phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số phải xuất phát từ nhu cầu thực tế của lao động vùng này có tính đến các khía cạnh đặc thù về đối tượng, về điều kiện tự nhiên, phong tục tập quán, văn hóa của từng cộng đồng dân tộc ít người vùng dân tộc thiểu số. Giảm hỗ trợ trực tiếp, cho không, tăng hỗ trợ có điều kiện. Cùng với đó cần tích hợp chính sách, chương trình hỗ trợ đào tạo nghề, giải quyết việc làm gắn với phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số để tránh chồng chéo về mục đích, nội dung, đối tượng thụ hưởng và trùng lặp về địa bàn triển khai, có điều kiện để lồng ghép, tập trung nguồn vốn cho thực hiện các mục tiêu đặt ra.

Thứ ba, tạo mô hình, điểm sáng lan tỏa về đào tạo nghề, giải quyết việc làm gắn với phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số. Trong đó đặc biệt là phát triển các loại hình doanh nghiệp trên địa bàn, hình thành các trung tâm kinh tế có sức lan tỏa mạnh trong vùng dân tộc thiểu số. Đồng thời trang bị cho người lao động vùng dân tộc thiểu số những kiến thức căn bản về thị trường, chủ động tham gia vào chuỗi giá trị và gắn kết người nông dân với các doanh nghiệp.

Thứ tư, coi trọng khâu giáo dục - đào tạo từ những cấp học thấp nhất gắn với môi trường sống của họ. Chính sách bền vững là tạo điều kiện tốt nhất về môi trường sống; với thái độ tôn trọng và đề cao năng lực tại chỗ, góp phần phát triển nguồn nhân lực có chất lượng ở vùng còn nhiều khó khăn. Kinh nghiệm quốc tế chỉ ra rằng, các quốc gia đa văn hóa cần có một hệ thống giáo dục linh hoạt xuất phát từ nhu cầu của cộng đồng tại chỗ với các chính sách đặc thù; trọng tâm là tạo dựng mô hình giáo dục giàu bản sắc cộng đồng về ngôn ngữ, văn hóa trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế. Thực hiện hiệu quả chủ trương quy hoạch, kế hoạch xây dựng mở rộng các trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú ở các huyện nghèo, gắn với việc tổ chức liên thông trung học cơ sở và trung học phổ thông tại các trường này. Tăng cường củng cố, mở rộng các trường (hoặc khoa) dự bị đại học, chú trọng việc nâng cao chất lượng đào tạo hệ dự bị đại học cho học sinh dân tộc thiểu số, để bảo đảm chất lượng đào tạo đại học là sinh viên dân tộc thiểu số. Tiếp tục quan tâm phát triển đội ngũ giáo viên ở các cấp học là người dân tộc thiểu số; tăng cường đầu tư các trường phổ thông dân tộc nội trú và các trường, điểm trường có nhiều học sinh phổ thông dân tộc bán trú, học sinh các dân tộc rất ít người theo học tại trường.

Thứ năm, các bộ, ngành, địa phương và cơ sở đào tạo cũng cần chủ động rà soát danh mục nghề đào tạo, xây dựng chương trình, giáo trình, tài liệu và thời gian đào tạo các chương trình giáo dục nghề nghiệp phù hợp với trình độ, văn hóa, ngôn ngữ của đồng bào dân tộc thiểu số và đặc điểm vùng, miền. Tăng cường cung cấp thông tin thị trường lao động, đẩy mạnh và mở rộng công tác tư vấn, hướng nghiệp, giới thiệu việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số; xây dựng cơ chế đào tạo nghề theo đơn đặt hàng và khuyến khích doanh nghiệp thực hiện chính sách thu hút, đào tạo và sử dụng lao động người dân tộc thiểu số vào làm việc. Nhà nước có giải pháp đồng bộ phát triển mạnh mẽ thị trường lao động, chú trọng lao động là người dân tộc thiểu số. Cần quan tâm xuất khẩu lao động cho đối tượng là đồng bào dân tộc thiểu số.

Thứ sáu, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến các dân tộc thiểu số và vùng dân tộc thiểu số, miền núi. Đổi mới các tiếp cận và xây dựng chính sách cho vùng và dân tộc thiểu số nói chung và chính sách phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số nói riêng, bảo đảm yêu cầu khoa học và hiệu quả. Xây dựng chương trình tổng thể phát triển kinh tế - xã hội cho vùng vùng dân tộc thiểu số, miền núi giai đoạn 2021 - 2025 theo hướng phải nhận thức thống nhất rằng, phát triển phát triển kinh tế - xã hội cho vùng dân tộc thiểu số, miền núi là động lực quan trọng nhất, mang tính quyết định để nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số phát triển theo. Tiếp tục tổ chức thực hiện có hiệu quả một số chính sách cụ thể liên quan đến phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số, trọng tâm là triển khai thực hiện các nội dung Nghị quyết số 52/NQ-CP, ngày 15-6-2016 của Chính phủ về “Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến năm 2030”. Trong lĩnh vực dạy nghề cần tập trung ưu tiên cho vùng dân tộc thiểu số đạt được các mục tiêu của Chiến lược phát triển Dạy nghề thời kỳ 2011 - 2020; ưu tiên đầu tư cho những cơ sở dạy nghề trọng điểm ở vùng dân tộc thiểu số, vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn. Trong lĩnh vực giải quyết việc làm nên tập trung thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ tạo việc làm và giải quyết việc làm cho lao động dân tộc thiểu số theo các chính sách hiện hành. Xây dựng chính sách đặc thù thu hút, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào vùng dân tộc thiểu số và miền núi; hỗ trợ doanh nghiệp đào tạo và sử dụng lao động địa phương nhất là người dân tộc thiểu số./.

Nguồn: http://www.tapchicongsan.org.vn/